Quý độc giả thân mến,
Thập giá hay thánh giá đã trở nên biểu tượng nổi tiếng mang tầm mức cứu độ. Có lẽ vì ý nghĩa này nên Giáo hội hôm nay cử hành lễ suy tôn Thánh giá. Từ thế kỷ VI trước Công nguyên, người Assyria, Ba Tư đã áp dụng hình phạt treo tội nhân lên thập giá cho đến chết. Đến thời Rôma, nó trở thành khí cụ dành cho những ai bị coi là “kẻ thù của trật tự xã hội”: nô lệ phản loạn, tội phạm chính trị, hay những kẻ bị xem là “không xứng đáng” với một cái chết danh dự
Thập giá hình chữ T. Nạn nhân bị đóng đinh hoặc buộc tay chân vào gỗ, chịu sự giày vò lâu dài cho đến chết vì ngạt thở, mất máu hoặc kiệt sức. Với người Rôma, đây vừa là công cụ trừng phạt vừa là lời cảnh cáo công khai: ai chống lại quyền lực của đế quốc sẽ kết thúc ở đó. Rõ ràng thập giá mang ý nghĩa của cái chết nhục nhã và khủng khiếp. Một công dân Rôma không bao giờ bị kết án đóng đinh; chỉ những người ngoại quốc hoặc nô lệ mới bị xử phạt như vậy. Chúa Giêsu đã chịu hình phạt vốn chỉ dành cho những người ngoại quốc hoặc nô lệ.
Mỗi lần đến Tuần Thánh, thập giá trở nên trung tâm của phụng vụ, vì nơi đó Chúa Giêsu đã chết để cứu độ con người. Chúa Giêsu bị kết án đóng đinh khoảng năm 30–33 SCN. Cựu ước nói đến con rắn đồng được treo lên một cái cây. Hình ảnh này mang tính biểu tượng mạnh mẽ, không chỉ là sự chữa lành thể lý mà còn là bài học về sự cứu độ qua đức tin. Con rắn đồng được giương cao giữa sa mạc là dấu chỉ nhắc nhở dân Israel rằng chính Thiên Chúa là Đấng cứu độ (Mêsia). “Hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.” Vậy, qua biểu tượng con rắn này, chẳng nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa sao? Dĩ nhiên con rắn đồng không tự có quyền năng chữa lành, nhưng qua đó, Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót. Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng trên những đường cong là vậy. Tương tự, thập giá không tự cứu chuộc nhân loại, mà là qua thập giá, Thiên Chúa thực hiện kế hoạch cứu độ qua Chúa Giêsu. Giống như rắn đồng là con đường duy nhất để dân Israel được cứu khỏi cái chết do rắn độc, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là con đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời (Ga 14, 6). Thập giá của Chúa Giêsu là nơi công lý của Thiên Chúa được hoàn thành và tình yêu của Ngài dành cho nhân loại được tỏ hiện.
Theo các Tin Mừng, sau khi bị điệu ra trước Philatô, Chúa Giêsu bị trao cho binh lính để hành quyết. Trên con đường “Via Dolorosa”, Người phải vác thập giá, biểu tượng của sự ô nhục, đến nơi hành hình gọi là Golgotha. Cũng từ đây, chúng ta có thể kể ra ý nghĩa của thập giá của Chúa Giêsu, đó là bản án bất công: Đấng vô tội chịu cái chết của tội nhân. Có lẽ ý nghĩa đẹp nhất của thập giá đó là tình yêu tự hiến của Thiên Chúa dành cho con người. Ngài đã yêu con người cho đến cùng và đã chịu chết trên thập giá. Vì ý nghĩa này, ngay từ những ngày đầu sau biến cố Phục sinh, các Kitô hữu tiên khởi đã sớm nhìn thập giá như trung tâm mầu nhiệm cứu độ. Hoặc nói như Thánh Phaolô: “Chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1, 23). Điên rồ nhưng chính nơi đó, các Kitô hữu nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa: qua thập giá, sự chết bị chiến thắng, và tình yêu mạnh hơn hận thù.
Nếu học lịch sử Giáo hội sơ khai thời bách hại, chúng ta có thể thấy các Kitô hữu không dám sử dụng hình ảnh thập giá cách công khai, vì sợ sự chế nhạo và bách hại. Trong các hang toại đạo ở Rôma, nơi tôi đã đến và thấy tận mắt, người ta tìm thấy nhiều biểu tượng ẩn dụ: con cá (Ichthys), mục tử nhân lành, hay neo tàu – dấu chỉ của niềm hy vọng. Tạ ơn Chúa, thay đổi lớn đã diễn ra vào thế kỷ IV, khi Hoàng đế Constantine (năm 272–337) hoán cải và ban hành chiếu chỉ Milano (năm 313), hợp pháp hóa Kitô giáo. Theo truyền thống, trước trận đánh ở cầu Milvius (năm 312), Hoàng đế thấy thị kiến thập giá trên bầu trời với hàng chữ: “In hoc signo vinces” (nghĩa là “Với dấu này, ngươi sẽ chiến thắng”). Constantine đã dùng biểu tượng thập giá làm cờ hiệu quân đội, và họ đã chiến thắng. Từ đây, cây thập giá chính thức trở thành dấu hiệu chiến thắng của Thiên Chúa.
Không lâu sau, thánh Helena là mẹ của Constantine, đã hành hương Giêrusalem và theo truyền thống, tìm thấy Thánh Giá thật của Chúa Giêsu (khoảng năm 326). Một phần của cây gỗ ấy được đặt tại Vương cung Thánh đường Mộ Thánh tại Giêrusalem, nơi hành hương quan trọng của người Công giáo. Chính từ biến cố này mà dần hình thành lễ Suy Tôn Thánh Giá (Exaltatio Crucis), được cử hành vào ngày 14 tháng 9 hằng năm. Thú vị là năm nay rơi vào ngày Chúa Nhật, vốn là ngày cử hành mầu nhiệm chịu chết và phục sinh của Chúa Giêsu.
Từ thế kỷ IV trở đi, thập giá đã trở thành biểu tượng chính yếu trong đời sống Giáo hội. Các thánh đường đều dựng thập giá. Các Kitô hữu mang thánh giá bên mình, làm dấu thánh giá trên thân thể. Biểu tượng thánh giá được thấy rất nhiều trong đời sống văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc và âm nhạc. Dẫu sao, hôm nay chúng ta mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá, không chỉ là nhìn về quá khứ, không chỉ nhìn thánh giá với nét đẹp của nghệ thuật. Trên hết, Thánh giá nhắc nhở rằng trong mỗi khổ đau, bất công, hay thử thách, Thiên Chúa luôn là nguồn an ủi và hy vọng của ta. Chỉ có Chúa Giêsu đã chết trên cây thập giá và đã phục sinh mới có thể giải thoát chúng ta.
Chúa Giêsu đã vác thập giá với trọn lòng tín thác. Thập giá mời gọi ta chọn con đường của tình yêu tự hiến, dám sống cho người khác
Đúng là có lúc chúng ta sợ thập giá, vì sức nặng và sự đau khổ của nó. Chúa Giêsu đã vác thập giá với trọn lòng tín thác. Ngài đã chiến thắng trong cuộc chiến sinh tử này. Có lẽ vì thế mà thánh Phaolô nhắn cho tín hữu Do Thái và cho mỗi người chúng ta rằng nơi cây gỗ Thập tự, chúng ta tìm thấy “ngai tòa của ân sủng, để được lãnh nhận lòng thương xót” (Dt 4,16). Đó là sự trái ngược đến lạ thường, bởi thập giá mời gọi ta chọn con đường của tình yêu tự hiến, dám sống cho người khác.
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.